Monday, February 9, 2015



Nấm là thực phẩm có hàm lượng calo thấp, do đó những người béo phì nên dùng. Bệnh nhân đái đường cũng nên ăn nấm vì nó ít chất đường lại làm giảm cơn đói. Trong thực đơn ít cholesterol của người cao huyết áp cũng nên có nhiều nấm.

Năm ăn thông dụng là nấm rơm, mộc nhĩ (mộc nhĩ), nấm bào ngư.

Nấm rơm dễ trồng, thu hoạch nhanh và năng suất cao. Phong trào trồng nấm rơm khá phổ thông ở các nơi có nhiều rơm dạ. Nấm rơm tươi có nhiều nước, trong 100g nấm tươi có 3,4 – 4,5g chất đạm, 1,8g chất béo, ngoài ra còn có các khoáng vật và chất xơ. Trong 100g nấm rơm khô có 49g chất đạm, 20g chất béo.

Cây nấm rơm

nấm mèo khô có 13,8/100g chất đạm, nhiều chất xơ và khoáng chất, gồm cả calcium và sắt.
Nấm bào ngư có lượng đạm gấp đôi rau quả, nhiều vitamin B1, B2 và đầy đủ các chất khoáng cấp thiết cho thân, nhất là calcium, photpho và sắt với tỷ lệ gấp đôi so với thịt.
Nấm là thực phẩm có hàm lượng calo thấp, do đó những người béo phì nên dùng. Bệnh nhân đái đường cũng nên ăn nấm vì nó ít chất đường lại làm giảm cơn đói. Trong thực đơn ít cholesterol của người cao áp huyết cũng nên có nhiều nấm. Trong nấm có ít ion natri nên dùng cho người viêm thận hoặc suy tim có chứng phù cũng rất hợp. Nấm có nhiều acid folic hơn thịt và rau nên giúp buồng bệnh thiếu máu.

Do có nhiều chất xơ, nấm có tính nhuận tràng. Thống kê cho thấy tỷ lệ ung thư đại tràng thấp ở vùng dân ăn nhiều nấm và cao ở vùng dân ăn nhiều thịt. Trường Đại học Tokyo ban bố rằng dịch chiết nấm ăn bằng cồn có tính trị ung thư ở chuột.
Dân gian thường dùng nấm mèo để trị các bệnh rối loạn đường ruột, đau cổ họng, thanh lọc máu. Đông y quan niệm rằng nấm mèo làm nhẹ mình, ích khí, cường chí.
Nấm không có diệp lục tố, không tự sinh sản được carbonhydrat như cây xanh, chúng sống nhờ vào cây mà chúng bám vào. Do đó nấm lành hay độc phần nào tùy thuộc vào môi trường cấy. Tốt nhất nên gieo cấy mộc nhĩ bằng mùn cưa trong bịch nylon nên chọn mạt cưa của loại gỗ cây không độc.

Việc thu hoặch nấm hoang dại cần phải có kinh nghiệm. Đã có rất nhiều trường hợp trúng độc nấm gây tử vong. Nấm độc thường có mầu sặc sỡ hoặc ánh bạc. Khí nấu chín mà nấm có mùi vị khác lạ thì không nên ăn.

Xem thêm các bai thuoc hay



Cây Sen có tên khoa học là Nelumbo nucifera. Trong số các cây thuốc, sen là cây thuốc độc đáo, cả cây dùng làm thuốc, mỗi bộ phận lại có tính trị liệu khác nhau.
Ngó Sen

Ngó Sen

Ngó Sen hay liên ngẫu là phần rễ ở dưới nước, mầu trắng, xốp, bên trong có nhiều ống dọc nhỏ, nhựa dính sít. Ngó sen vị nhạt, tính mát, không độc. Trong ngó sen có những chất bổ quí như asparagin, acginin.

Cây Sen có tên khoa học là Nelumbo nucifera. Trong số các cây thuốc, sen là cây thuốc độc đáo, cả cây dùng làm thuốc, mỗi bộ phận lại có tính trị liệu khác nhau.

Cay-Sen

Cây Sen

– Lá sen, cuống sen, vỏ hạt sen: dùng chữa đi tả, cầm máu.

– Hoa sen: dùng để an thần, cầm máu.

– Nhụy sen, tua sen: có tác dụng thanh tâm, thông thận, cầm máu, cố tinh.

– Hạt sen: bổ dương, bổ tâm tỳ, ích khí, an thần.

– Tâm sen: an thần, trị nhịp tim nhanh, khó ngủ, hay mơ.

– Củ sen: dưỡng tâm, bổ tỳ, cố tinh.

Tác dụng của ngó sen sống và ngó sen chín khác nhau. Ngó Sen sống có tác dụng thanh nhiệt, chỉ khát, an thần, làm nhẹ bao tử và giải độc rượu. Người ta dùng ngó sen để trị nhức đầu, mất ngủ, táo bón. Ngó Sen nấu chín làm mạnh tỳ vị, bổ máu nóng, giải độc do ăn phải cua độc. Ngó Sen chín còn có tác dụng nhuận tràng. Người ta thường nấu canh hay làm nộm ngó sen làm cho uống rượu không say, ngó sen dùng cho người bệnh đái đường rất tốt vì nó có tác dụng thanh nhiệt, chỉ khát.

Ngoài tác dụng trị liệu, Sen còn là cây cảnh rất đẹp và nên thơ.

Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng

Nhị vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng tanh hôi mùi bùn

Xem thêm các bai thuoc dan gian

Sunday, February 8, 2015



Trong dân gian, quả mướp đắng thường được dùng làm các món ăn hàng ngày như: mướp đắng nhồi thịt nấu canh, khổ qua xào trứng, mướp đắng sống ướp lạnh ăn với ruốc, mướp đắng muối chua… đều là những món được nhiều người chuộng và có tác dụng trị bệnh tiểu đường.

mướp đắng còn gọi là Khổ qua (không phải là Khổ quá), có tên khoa học là Monardico charantin. Quả khổ qua có vị đắng, tính hàn, không độc, có tác dụng thanh nhiệt, mát tim, sáng mắt, nhuận tỳ, bổ thận, nuôi can huyết, bớt mỏi mệt, trị chứng tiêu khát (tiểu đường), trị đái dắt, phù thũng do can nhiệt. Hạt khổ qua có tách dụng ích khí, tráng dương. Nước sắc lá khổ qua kích thích sự tiết mật, trị sốt cao, cũng dùng để trị bệnh tiểu đường. Dây mướp đắng nấu nước tắm trị rôm sẩy trẻ em.

Trong dân gian, quả khổ qua thường được dùng làm các món ăn hàng ngày như: khổ qua nhồi thịt nấu canh, khổ qua xào trứng, mướp đắng sống ướp lạnh ăn với ruốc, khổ qua muối chua… đều là những món được nhiều người ưa chuộng và có tác dụng trị bệnh tiểu đường.

Ăn uống là mạch sống của con người. Nếu ăn uống có chừng đỗi, đúng cách thì tỳ vị điều hòa, tạng phủ bình yên. Việc điều hòa ngũ vị (chua, đắng, ngọt, cay, mặn) rất quan trọng, ăn nhiều vị nào quá cũng không tốt. bởi thế trong Nội kinh có câu:

“Ăn là nuôi sự sống, cái ích đó do ta làm nên

Ăn là hại sự sống, cái hại đó cũng do ta làm nên”

Xem thêm các bài thuốc dân gian

Thursday, February 5, 2015



Rau Rút vị ngon ngọt, tính hàn, không độc, trơn hoạt. Nó có tính bổ trung ích khí, làm dễ ngủ, mát dạ dày, mạnh bổ gân xương, trị mất ngủ rất tốt.

Rau Rút có tên khoa học là Neptunia Oleracea. Đông y gọi là Quyết thái. Cây này mọc bò trên mặt nước. Thân cọng được bao bọc bởi một lớp phao trắng xốp như bông gòn. Lá hai lần kép, cuống phụ xếp theo hình chân vịt, khẽ động vào là lá cụp lại.

Rau rút thường được nấu chung với các rau khác trong một số món ăn hằng ngày như món canh cua khoai sọ, bánh đa cua, rau muống luộc,… đều là những món rất được chuộng của người Việt Nam.

Cây rau Rút

Khi có được rau Rút cọng non và dài, nhiều người thích ăn nó như rau sống. Lại có người ăn rau Rút sống chấm với mắm tép, mắm tôm, lẩu mắm.

Rau Rút có tên khoa học là Neptunia Oleracea. Đông y gọi là Quyết thái. Cây này mọc bò trên mặt nước. Thân cọng được bao bọc bởi một lớp phao trắng xốp như bông gòn. Lá hai lần kép, cuống phụ xếp theo hình chân vịt, khẽ động vào là lá cụp lại.

Rau Rút vị ngon ngọt, tính hàn, không độc, trơn hoạt. Nó có tính bổ trung ích khí, làm dễ ngủ, mát lòng dày, mạnh bổ gân xương. quần chúng thường dùng rau Rút trị mất ngủ rất tốt.

Con người thụ khí âm dương của trời ơi đất hỡi do vậy mọi biến hóa của trời đất đều ảnh hưởng đến con người. Nói đến âm dương là nói đến đêm ngày. Con người cũng biết sống theo qui luật tự nhiên, ngày thức đêm ngủ thì cuộc sống sẽ thoải mái, cơ thể nhẹ nhàng khoan khoái. Những người cưỡng lại với chu kỳ biến hóa của âm dương, ngày ngủ đêm thức thì thần khí không vững vàng, cơ thể mệt mỏi. Khoa học hiện đại cũng tán đồng về ý kiến này, người ta gọi đó là nhịp sinh vật học.

Ở tuổi thanh niên, khí huyết thịnh, cơ nhục suôn sẻ, kinh mạch thông hiểu thành ra ban ngày sảng khoái, ban đêm ngủ yên. Khi có tuổi, huyết khí suy, cơ nhục khô ráo, kinh mạch bê trệ, bởi thế ban đêm khó ngủ, ban ngày tê mê.

Đối với người mất ngủ, uống thuốc chỉ là trị ngọn, cần phải tìm biết duyên do để trị tận gốc, song song duy trì nếp sống điều độ, thư giãn ý thức, dùng những món ăn hạp, tập thể dục nhẹ nhàng… Cần kết hợp nhiều mặt mới mong hết bệnh tận gốc và sức khỏe mau phục hồi.

(Minh Khuê – sưu tầm)

Xem thêm các bai thuoc dan gian



Rau sam là một vị thuốc tốt, không độc mà lâu nay chưa được quan tâm đúng mức thật là uổng.

Rau sam có tên khoa học là Portulaca olerruccea. Trong rau sam có một ít vitamin A, B1, C, PP, caroten, saponi, glucozid, acid hữu cơ có khoảng 1% ion kali. Một số tính trị bệnh của rau sam là do nó có kali. Rau sam có vị chua, tính mát. Nó có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu viêm, sát trùng, thông tiểu, nhuận trường, giải độc, giảm Cholesterol rất hiệu quả. Đặc biệt là trị được giun kim và lị trực trùng. Ăn rau sam luộc giúp thông tiểu trị thủy thũng và giải độc.

Rau Sam giảm Cholesterol hiệu quả

Rau sam luộc chấm muối vừng có tính nhuận trường. Cả rau sam và vừng đều có tính nhuận tràng: rau sam nhuận tràng có nhẽ do chất sơ và saponin, vừng nhuận tràng do có tính trơn nhuận của chất dầu.

Nước sắc rau sam dùng để trị lỵ trực trùng (sắc từ 250g rau tươi). Tác dụng trị lỵ trực trùng của rau sam đã được nhiều công trình khoa học kiểm chứng và xác nhận. Nước rau sam còn dùng để trị giun kim, uống nước của 50g rau trong 5 ngày.
Rau sam tươi giã nát đắp ngoài da trị mụn nhọt, chóc lở. Có người còn đắp lên vết “giời leo” cho đỡ đau nhức.

Tuệ Tĩnh có ghi cách trị độc bằng rau sam như sau: giã nát vắt lấy nước rau sam, uống nhiều lần.
Rau sam có tác dụng làm giảm hấp phụ cholesterol trong thức ăn, rất tốt cho người bị chứng cholesterol máu cao.

Xem thêm các bài thuốc hay

Wednesday, February 4, 2015



Khoai sọ là thực phẩm chứa nhiều chất dinh dưỡng như: tinh bột, protid, lipid, galactose, Ca, P, F; các vitamin A, B, C và nhiều axit amin cần thiết cho thân. Những món ăn từ khoai sọ còn có tác dụng chữa bệnh.

Theo y học cựu truyền, củ khoai sọ có vị ngọt hơi the, trơn, tính bình, có tác dụng ích khí bổ thận, điều hòa nội tạng, bổ hư tổn, trừ đàm tiêu thũng.

Khoai sọ là thực phẩm chứa nhiều chất dinh dưỡng như: tinh bột, protid, lipid, galactose, Ca, P, F; các vitamin A, B, C và nhiều axit amin cần thiết cho cơ thể. Những món ăn từ khoai sọ còn có tác dụng chữa bệnh.

Theo y học cựu truyền, củ khoai sọ có vị ngọt hơi the, trơn, tính bình, có tác dụng ích khí bổ thận, điều hòa nội tạng, bổ hư tổn, trừ đàm tiêu thũng. Thường dùng để chữa hư nhược cơ thể, hư lao yếu sức, kém ăn, mất ngủ,…

Một số món ăn chữa bệnh từ khoai sọ
  • Xương lợn hầm khoai sọ: Khoai sọ 60g, xương cẳng hoặc xương sống lợn 100g. Khoai sọ gọt vỏ rửa sạch, xương lợn chặt thành đoạn ngắn, thêm muối, nước, gia vị. Đun nhỏ lửa trong 2 giờ, ăn ngày 2 lần, có tác dụng khu phong trừ thấp. Dùng cho các trường hợp nổi ban dị ứng, đau nhức tay chân.
  • Cháo khoai sọ, củ mài: Khoai sọ 200g, sơn dược (củ mài) 50g, gạo tẻ 50g, nấu cháo ăn trong ngày. ngay ăn món cháo này có tác dụng ích khí (tăng thể lực), bổ tỳ vị (tăng cường chức năng tiêu hóa), dùng chữa chứng đuối sức, mệt mỏi, kém ăn, miệng khát.
  • Canh khoai sọ thịt lợn: Khoai sọ 100g, thịt lợn nạc 50g nấu canh ăn trong các bữa cơm. Tác dụng bổ âm, chống khô khát, ích khí, nuôi dưỡng bao tử, chống mỏi mệt. Có thể dùng để bồi dưỡng cho những trường hợp thân suy nhược, phiền khát sau khi bị bệnh.
  • Chè khoai sọ táo tàu: Khoai sọ 250g (gọt vỏ thái thành miếng nhỏ), táo tàu 50g, đường đỏ 50g, nấu nhỏ lửa thành món chè, chia 3 – 4 lần ăn trong ngày. Dùng để bồi dưỡng cho những trường hợp cơ thể suy nhược, phiền khát sau khi ốm dậy.
  • Canh cua khoai sọ rau rút: Cua đồng 200g, khoai sọ 60g, rau rút 1 mớ. Cua đồng rửa sạch, bỏ yếm và mai, giữ lại gạch cua, giã nát, lọc lấy nước, cho mắm muối vừa ăn; Khoai sọ cạo bỏ vỏ, rửa sạch bổ miếng vừa ăn: Rau rút nhặt lấy phần lá, cọng non, bỏ rễ và bấc, rửa sạch. Cho khoai vào nước cua, nấu đến khi khoai chín nhừ, cho rau rút vào, đun vừa chín là được. Dùng món ăn này rất tốt cho người tâm cảnh canh cánh, kém ăn, ít ngủ.
  • Canh khoai sọ đậu ngự: Khoai sọ 300g, đậu ngự 100g, dầu ăn, gia vị vừa đủ. Khoai sọ gọt vỏ, rửa sạch, ngâm với nước muối cho sạch nhớt. Đậu ngự rửa sạch, ngâm nước cho mềm, luộc qua. Làm nóng chảo dầu, cho khoai sọ vào xào qua rồi cho nước vào nấu khoảng 10 phút. Cho tiếp đậu ngự vào hầm. Khi đậu và khoai nhừ, thêm gia vị, ăn nóng. Ăn thẳng món này rất tốt cho não và cải thiện chứng hư nhược trí nhớ, phù hợp với người bệnh suy nhược thân thể, hư nhược tâm thần, người mới ốm dậy.

Xem thêm các bai thuoc dan gian

Monday, February 2, 2015



Nguyên tắc tạo thành các bài thuốc là một bộ phận trong phép chữa bệnh biện chứng của đông y, là cách vận dụng cụ thể của “lý, phép, phương, dược”.
Bài thuốc Đông Y
Một bài thuốc đông y thường được cấu thành bởi 3 yếu tố:

1. Vị thuốc chủ: cứ bệnh tình chọn một, hai vị thuốc đốn làm nòng cốt chữa bệnh. Đó là thành phần chính của bài thuốc.

2. Vị thuốc độ trì: Căn cứ đặc điểm của bệnh, cân nhắc chọn vị thuốc chủ rồi lại chọn những vị thuốc khác ghép vào để vị thuốc chủ phát huy được tác dụng cấp thiết để điều trị càng sát hợp với bệnh tình.

3. Vị thuốc gia thêm theo bệnh: nghĩa là theo bệnh phụ của bệnh nhân mà cho thêm vị thuốc vào.

Điều cần nói thêm là: vị thuốc chủ và vị thuốc phù trì trong bài thuốc không hạn chế một hay hai vị, rất nhiều bài có đến hai, ba vị tạo thành. Nhưng khi vị thuốc chủ hoặc vị thuốc phù trì có từ hai vị trở lên, có thể xảy ra hai tình huống sau: Một là sau khi ghép vị rồi có thể tăng cường, hạn chế hoặc cải biến tác dụng của vị thuốc chủ hoặc vị thuốc độ trì như Ngân hoa cùng dùng với Liên Kiều trong bài Ngân Kiều tán thì tác dụng thanh nhiệt sẽ được tăng lên, vì hai vị đó dược tính tương tự như nhau; Ma hoàng cùng dùng với Thạch cao trong bài Ma hạch thạch cam thang là để hạn chế nhau vì Ma hoàng thì Tân ôn còn Thạch cao thì Tân hàn, khí vị tương phản để tạo thành bài thuốc khai phế, thanh nhiệt. tình huống khác là ứng dụng kết hợp một lúc hai cách chữa bệnh như bài Đại thừa khí thang lấy Hậu phác, Chỉ thực ghép vị Đại hoàng là áp dụng phối hợp một lúc hai cách chữa cộng hạ và hành khí, phá khí, tác dụng của nó càng mạnh hơn; hay như bài Hoàng long thang lấy Nhân sâm, Đương quy để ích khí, dưỡng huyết phối vị với Đại hoàng để công hạ, đó là phối hợp vận dụng giữa công và bổ, trở nên bài thuốc vừa công vừa bổ. Cũng có thể gọi vị thuốc nói trên là “sứ dược”, tức thị chọn một vị thuốc có tác dụng mạnh đến một phủ tạng, kinh lạc nào đó, dẫn thuốc đến thẳng nơi bị đau như Kiết cánh dẫn thuốc đi lên, Ngưu tất dẫn thuốc đi xuống. Cũng có vị thuốc có tác dụng điều hòa giữa các vị thuốc như chơi dùng Cam thảo trong nhiều bài thuốc nhưng không phải bài nào cũng dùng nó. Định lượng mỗi vị thuốc trong thang nhiều ít khác nhau cốt tử do bệnh tình mà định vì nó sẽ kiềm chế nhau, ảnh hưởng nhau nên cần chú ý trung tâm, lại phải chiếu cố thỏa đáng toàn diện, sao cho “nhiều mà không tạp, ít mà tinh chuyên”.

Tóm lại, nguyên tắc tạo thành các bài thuốc là một bộ phận trong phép chữa bệnh biện chứng của đông y, là cách ứng dụng cụ thể của “lý, phép, phương, dược”. Chỉ có chẩn đoán chuẩn xác, phân biệt rõ bệnh tình nặng nhẹ, thư cấp, bệnh nào chính phụ, quyết định nguyên tắc điều trị, chọn dùng vị thuốc chủ, vị thuốc độ trì có mục đích thì mới tạo nên một bài thuốc kiến hiệu.

Xem thêm các bài thuốc hay