Wednesday, February 11, 2015



Cua đồng hay còn có tên gọi khác là “Điền giải”, sinh sống ở những vùng nước ngọt, phân bố rộng rãi từ đồng bằng đến trung du miền núi nước ta. Cua đồng thường được sử dụng làm món ăn bồi bổ trong những ngày hè oi ả như: riêu cua, lẩu cua, bún măng cua.. có tác dụng giải nhiệt, dễ tiêu hóa.

Theo Đông y, cua đồng có tính hàn, vị mặn, hơi độc. Cua đồng được sử dụng trong Đông y làm bài thuốc liền gân nối xương, trị nhiệt tà, trừ ghẻ lở, máu đông cục…

Theo như Sách Nam dược của Tuệ Tĩnh cho biết: “Điền giải có vị mặn, mùi tanh, tính hàn, hơi độc, tác dụng liền gân, nối xương, trị nhiệt tả, ngộ độc, máu kết cuộc, lở ghẻ”. Theo sách Dược tính chỉ nam của Tuệ Tĩnh có ghi thêm: “Điền giải có tác dụng tán tà nhiệt trong lồng ngực, thông được kinh mạch, làm cho ngũ tạng khỏi buồn phiền, giải được độc do thức ăn, liền được gân, thêm sức cho xương, có ích khí lực, tống được các vật kết đọng trong người, phá được chứng ứ huyết do vấp ngã hoặc bị đánh chấn thương, sốt rét”…

Những món ăn – bài thuốc từ cua đồng được Đông y sử dụng

Trị ghẻ lở, thanh nhiệt thân: Lấy 200g cua đồng bỏ yếm, mai, rửa sạch, giã nát, lọc lấy nước; mướp hương 1 – 2 trái cạo vỏ, rửa sạch, cắt miếng; rau đay và mùng tơi tươi mỗi thứ 100g rửa sạch, cắt đoạn. Đun sôi nước cua và cho các loại rau vào, đến khi mướp chín là được.

Trị còi xương, chậm đi ở trẻ nhỏ: Cua đồng sau khi được làm sạch, bỏ chân, càng, mai, yếm, chỉ lấy mình cua, rang nhỏ lửa cho vàng và khô. Giã nhỏ, rây lấy bột mịn. Hàng ngày, dùng bột cua quấy với bột gạo cho trẻ ăn, mỗi lần 1 – 2 thìa nhỏ. phối hợp cho trẻ tắm nắng vào buổi sáng 15 phút, 2 – 3 lần/tuần sẽ cho kết quả tốt hơn.

Trị lành viết thương bầm dập: cua đồng 2 con giã nát, rượu 1 chén, cho vào nồi đun sôi, gạn lấy nước uống, bã đắp vào chỗ đau.

Trị chứng mất ngủ, biếng ăn: sử dụng 1 – 2 nắm rau rút bỏ rễ, cạo bỏ phần bấc, ngắt đoạn, rửa sạch; khoai sọ 300 – 400g cạo vỏ, xắt nhỏ; cua đồng 200g bỏ yếm, mai, rửa sạch, giã nát, gạn lấy nước. Cho khoai sọ vào nước cua nấu chín, khi gần chín, cho rau nhút vào, đun sôi tiếp 5 – 10 phút. Ăn trong ngày, cần ăn 2 – 3 ngày.

Trị chứng viêm thận cấp bằng cua đồng: Lấy 250g cua đồng bỏ yếm, mai, rửa sạch, giã nát, lọc lấy nước; vỏ cây dâu 50g rửa sạch, cắt đoạn. Đem tuốt luốt nấu thành canh, uống nước.

Trị chứng chướng bụng, đầy hơi: Cua đồng làm sạch, giã lấy nước nấu cháo, ăn nóng.

Trị đau răng lợi, nhiệt miệng: dùng cua đồng nấu với mướp đắng, ăn hàng ngày có tác dụng thanh nhiệt rất tốt.

Tuy nhiên, cua đồng không phải tốt cho sức khỏe của tuốt luốt mọi người. Những người không nên dùng cua đồng như: Những người ốm, những người mới ốm dậy, nữ giới có thai, những người có tả tỳ vị hư hàn. Trong gạch cua có chứa nhiều hàm lượng cholesterol, nên người áp huyết cao, bệnh tim mạch cần hạn chế dùng.

Lưu ý: Trong các món ăn được chế biến từ cua đồng nên cho thêm tử tô và gừng để làm giảm bớt tính hàn.

Xem thêm các bài thuốc hay

Tuesday, February 10, 2015



Đàn ông dùng nấm này bộc trực thì dễ năm thê bảy thiếp, mà dẫn đến nát cửa tan nhà!

Mới đây, trong lần vào bản Phìn Sư (xã Túng Sán, Hoàng Su Phì, Hà Giang) của người Cờ Lao, tôi được thầy cúng Min Phà Sinh, người Cờ Lao mời uống một thứ nước lạ. Thứ nước ấy có màu đen thẫm, vị hơi chát. Uống xong bát nước, một cảm giác khá lạ xảy ra: Sự rời rã của thân sau hành trình đánh vật dài đằng đẵng với cung đường dốc ngược như đường lên trời, hình như tan biến đâu mất. Từng dùng nhiều loại thảo dược quý, song tôi phải công nhận, thứ thảo dược này rất lạ. Tôi bộc bạch ý muốn được xem thứ thảo dược lạ ấy.

Thầy cúng Min Phà Sinh gọi vợ, nói mấy câu Cờ Lao, nghe hệt tiếng Tàu, thì cô vợ đi ra phía trái nhà. Lát sau, vợ Min Phà Sinh mang đến một sâu thứ thảo dược lạ dùng nấu nước ấy.

Từng đi rừng nhiều, biết nhiều loại nấm, từ nấm phục thần mọc dưới lòng đất, ký sinh trên rễ cây thông đỏ, cho đến phục linh thiên mọc trên ngọn cây vân sam trên đỉnh Fansipan quý như vàng ròng, song tôi chưa được thấy loài nấm này.

Nấm tan cửa nát nhà

Cả củ và thân nấm, trông chả khác gì nguyên cụm… của quý. Hai “viên ngọc” bám lủng lẳng hai bên, và nảy nòi từ giữa hai “viên ngọc” đó là “cái cột có mũ”. Tôi thiển nghĩ, củ nấm này đem về xuôi, chị em nhìn thấy, chắc cũng phải đỏ mặt.

Min Phà Sinh năm nay 54 tuổi, đã có chắt nội, chắt ngoại, tức lên chức cụ, mà trông khá trẻ. Vợ Sinh cũng đã 55 tuổi, mà má vẫn hồng, tóc vẫn đen, răng vẫn chắc. Người Cờ Lao sống ở sát đỉnh Tây Côn Lĩnh, cuộc sống hà khắc, nghèo túng, mà giữ được dáng dấp như thế kể cũng lạ. Thầy cúng Sinh vẫn liếm dao nung đỏ cháy xèo xèo, vẫn đi rừng xăm xăm và đi bộ hàng trăm cây số để đuổi ma, xua tà cho những gia đình ham trò mê tín dị đoan ở nơi khác.

Theo thầy cúng Sinh, để giữ được thể trạng sung mãn, trẻ trung ấy, Min Phà Sinh tiết lộ, là do loài nấm có bộ dạng kỳ dị như của quý đàn ông. Thầy cúng Sinh không biết tên phổ quát của loài nấm này là gì, chỉ biết rằng, từ đời tổ tông, tổ sư đã dùng như nước uống hàng ngày, nên đời sau cứ thế vào rừng hái.

Nấm ngọc cẩu.

Theo Min Phà Sinh, người Cờ Lao có cội nguồn từ Trung Quốc, thiên cư từ phía bên kia dãy Tây Côn Lĩnh sang bên này, thuộc đất Việt Nam mới khoảng 8 đời, tức cách nay chừng 150 đến 200 năm. cha ông, họ hàng Min Phà Sinh ở bên Trung Quốc vẫn còn nhiều, nên vẫn đi về. Cây nấm kỳ lạ này chính là thức uống bí truyền, chỉ dòng họ của Sinh là biết và được truyền cho con dâu. Sở dĩ, các cụ truyền cho con dâu, vì người con dâu về với chồng, sẽ thành người trong nhà và người con dâu sẽ siêng năng vào rừng lấy nấm, tích trữ trong nhà, để đại gia đình dùng dần, như một thứ thuốc thập toàn đại bổ.

Theo lời Sinh, sở dĩ con gái Trung Quốc có da dẻ trắng mịn, là vì đều được ba má chỉ dạy cách hái thảo dược và uống thảo dược thay nước hàng ngày. Tuy nhiên, không phải gia đình nào ở Trung Quốc cũng biết đến loài nấm có bộ dạng kỳ lạ, mà người Cờ Lao gọi là Xin Xao này. Tôi hỏi Min Phà Sinh rằng, tác dụng chính của củ nấm dị hình này là gì, thì thầy cúng Sinh không trả lời ngay, mà kể một huyền thoại vừa có tính bi, hài, và hơi tục một chút. Huyền thoại này là của người Cờ Lao sống ở bên Trung Quốc kể.

Chuyện rằng, xưa kia, dãy núi Tây Côn Lĩnh cao đến tận trời, nên người trên trời và người hạ giới vẫn giao lưu với nhau. Các chàng trai Cờ Lao rất đẹp và khỏe, nên tiên nga trên trời rất yêu quý, thường xuống hạ giới để tư tình.

Hàng ngày, các thanh niên Cờ Lao không chịu cần lao, bỏ bê cả gia đình, vợ con để yêu đương với các ngọc nữ.Một ngày, đang yêu đương các tiên nga, anh chàng Chảo Mìn Sư chợt nhận ra, hành động sống như thế này không ổn, sẽ làm tan nát gia đình, thui chột nòi giống, nên Chảo Mìn Sư đã dùng dao cắt phăng của quý, ném xuống đất, để không còn đầu óc mơ màng đến các ngọc nữ nữa. Các trai bản Cờ Lao bị tiên nga hớp hồn cũng chợt tỉnh, dùng dao cắt của quý bỏ đi như Chảo Mìn Sư. Của quý cắt đi rồi, họ không còn bị ngọc nữ hấp dẫn nữa. Các nàng tiên nhìn cảnh ấy thì đau lòng, tiếc nuối lắm. Để của quý không hỏng, các nàng tiên đã biến chúng thành loài nấm.nĐiều đặc biệt, là loài nấm đó ẩn trong lòng đất, chỉ đến tháng 9 và tháng 10 mới trồi lên khỏi mắt đất. Từ đó, cứ đến tháng 9 và tháng 10, các nàng tiên lại xuống Tây Côn Lĩnh hái củ nấm hình của quý mang về trời. Ăn thứ nấm ấy, các nàng tiên sống đến ngàn tuổi, cứ đẹp mãi, trẻ mãi.

phụ nữ Cờ Lao biết được bí quyết ấy, cũng hái nấm về ăn, để được trẻ mãi không già. Đàn ông Cờ Lao đem nấm ấy về nấu uống, cũng thấy khỏe mạnh, cường tráng, “yêu” vợ không biết mệt mỏi. Tôi hỏi Min Phà Sinh, rằng, liệu loài nấm kỳ dị này có thực thụ tăng cường sinh lực hay không? Thầy cúng Sinh cười tủm tỉm bảo: “Cứ hỏi vợ mình thì biết?”. Tôi quay sang hỏi vợ thầy cúng Sinh, chị bụm miệng cười, đỏ mặt quay đi. Sinh bảo thêm: “nữ giới uống thứ nấm này vào, không chỉ xinh đẹp, trẻ mãi, mà còn hồi xuân đủ thứ, lấy được mấy chồng liền đấy nhé”.

Xem thêm các bai thuoc dan gian

Monday, February 9, 2015



Những bài thuốc cổ phương được baithuoc.vn tìm hiểu và giải nghĩa giúp độc giả, người bệnh hiểu rõ hơn về thành phần, công dụng của những bài thuốc này

1, TẢ TÂM THANG

Đại hoàng (sao rượu) 2 chỉ

Hoàng Liên (Sao rượu) 3 chỉ

Hoàng Cầm (Sao rượu) 4 chỉ

Tâm là quân hỏa, hóa sinh ra huyết dịch, vậy huyết là phách của hỏa, hỏa nghĩa là hồn của huyết, hỏa thăng nên huyết thăng, hỏa giáng nên huyết giáng. Biết rằng huyết sinh ra ở hỏa, hỏa chủ ở tâm thì biết rằng tả tâm tức là tả hỏa, tả hỏa nghĩa là chỉ huyết. Đắc lực nhất là một vị Đại hoàng, bẻ gãy cái thế hỏa hừng mà giáng xuống, lại kiêm phá huyết trục ứ để khỏi làm hại. Vị này thế gian nay phần nhiều không ai dám dùng, không biết rằng khí nghịch huyết thăng được vị thuốc này giáng xuống rất mạnh để bẻ gãy thế của dương mà hòa âm, thực là thánh dược vậy !

vả, không chỉ hạ khí ở Vị mà thôi, bên ngoài kinh mạch cơ phụ, hễ chỗ nào khí nghịch ở trong huyết phận, tính của Đại hoàng nơi nào nó cũng chạy suốt đến cả. Vì hơi thuốc rất mạnh, hễ người nào huyết khí bị ngưng tụ đều xài được cả, làm cho khí nghịch phải thuận ngay. cõi trần nay không dám dùng nên thường lưu tà lại trong cơ thể rất đáng tiếc.

Bài thuốc gọi là Tả Tâm thang của Ông Trọng Cảnh, xét đến nguồn gốc mà chữa theo bài thuốc này mà biết được huyết sinh ra ở tâm, tâm nghĩa là hỏa thì về huyết chứng luận đã biết được quá bán vậy !

2, THẬP KHÔI TÁN

Đại kế trắc bách diệp

Tiểu kế Đại hoàng

Mao căn Đơn bì

Tông lư Hà diệp

Thuyến thảo Chi tử

Các vị trên bằng nhau đốt tồn tính, giải trên đất để tiết hết hỏa độc, dẫn bằng đồng tiện hoặc rượu hoặc nước đen là màu sắc của thủy, khi đỏ thấy đen thì ngừng (kiến hắc tắc chỉ) nghĩa là thủy đã thắng hỏa vậy, nên đốt tồn tính thanh đen; đắc lực ở Sơn chi thanh hỏa, Đại hoàng giáng khí, hỏa thanh khí giáng thì huyết được yên. Còn các vị khác đều là thuốc hành huyết, chỉ nhờ để hướng đạo vậy. Thổi vào mũi để cầm máu cam, bôi vào vết thương để chỉ huyết đều dùng được cả.

3, CAM THẢO CAN KHƯƠNG THANG

Cam thảo (nướng) 3 chỉ

Ngũ vị (sao mật) 1 chỉ

Can khương (sao cháy) 2 chỉ

Cam thảo nướng qua thuần về bổ trung, Can khương sao đen thì chuyên về chỉ huyết, hai vị cay ngọt hợp hóa phù dương để đạt ra bốn phía huyết tự vận hành mà không trệ vậy. Ngũ vị thu liếm phế khí để không nghịch lên, lấy chỉ khí mà chỉ huyết. Phàm chứng dương hư tỳ không nhiếp huyết, nhưng huyết vốn là âm trấp, huyết thiếu nghĩa là âm thiếu, những thuốc cương táo thường kỵ dùng, phải xét kỹ mạch chứng, thật là hư hàn mới được dùng phương này.

4, TỨ VẬT THANG

Đương quy 4 chỉ

Sinh địa 4 chỉ

Xuyên khung 2 chỉ

Bạch thược 3 chỉ

Ông Kha Vâng Bá bàn rằng: Tâm sinh huyết, can tàng huyết, thành thử phàm muốn sinh huyết phải xét ở tâm, muốn điều huyết thì nên cần ở can vậy. Phương này chuyên về can kinh điều huyết, không phải là phương tâm kinh sinh huyết.

Đương quy hòa huyết, Xuyên khung hoạt huyết, Bạch thược liễm huyết, Địa hoàng bổ huyết. Bốn vị đủ cả tác dụng Sinh – Trưởng – Thu – Tàng cho nên có thể làm cho vinh khí yên đi ở trong kinh lạc.

Nếu huyết hư thì gia Sâm, Kỳ; huyết kết thì gia Đào nhân, Hồng hoa; huyết bế gia Đại hoàng, Mang tiêu; huyết hàn gia Quế phụ; huyết nhiệt gia Cầm, Liên. Tùy nghi mà gia giẩm, không câu nệ ở cái tên Tứ vật

Nếu gặp những chứng huyết băng, huyết vựng không nên vội bổ bằng thang Tứ vật mà trái lại giúp cho cái thế hoạt thoát, nên bổ khí sinh huyết, giúp cho lẽ dương sinh âm trưởng, vì phương này có thể bổ huyết chất hữu hình trong lúc bình thường mà không thể sinh huyết vô hình một cách vội. Phương này điều huyết ở trong âm nhưng không thể bồi bổ gốc ở chân âm.

Ông Kha Vâng Bá bàn đây tuy không đủ nghĩa với thang Tứ vật, song nói rằng Tứ vật là phương thuốc chuyên điều huyết của can kinh thì biết sâu xa về sở trường của nó, vì can chủ tàng huyết Xung, Nhung huyết hải đều thuộc can, nên chi việc điều huyết mà bỏ không dùng Tứ vật là chẳng thể thành công được.

5, ĐƯƠNG QUY LÔ HỘI HOÀN

Quy 1 lạng Hoàng Liên 1 lạng

Long đảm thảo 1 lạng Hoàng bá 1 lạng

Lô hội 5 chỉ Hoàng Cầm 1 lạng

Thanh đại 5 chỉ Đại hoàng 5 chỉ

Chi tử 1 lạng Mộc hương 2,5 chỉ

Xạ hương 5 phân

Trước dùng Thần khúc nếu hồ làm hoàn, uống với nước gừng để trị huyết bệnh, dùng rượu làm hoàn uống bằng đồng tiện thì tốt hơn. Người ta chỉ có can hỏa rất ngạo ngược thường đem hỏa của các kinh cùng nhau làm hại. Phương này dùng Thanh đại, Lô hội Long đảm thảo bẻ thẳng vào hỏa của can kinh.

Cầm, Liên, Chi, Bá, Đại hoàng chia nhau mà tả hỏa của các kinh, hỏa thịnh thì khí thực, nên lấy hai vị Hương để hành khí, hỏa thịnh thì huyết hư vì vậy lấy Đương quy làm quân để bổ huyết.

Trị can hỏa quyết liệt chỉ có phương này là có lực lượng, không nên tỵ hiềm rằng tả nhiều bổ ít.

Xem thêm các bài thuốc hay



Nấm là thực phẩm có hàm lượng calo thấp, do đó những người béo phì nên dùng. Bệnh nhân đái đường cũng nên ăn nấm vì nó ít chất đường lại làm giảm cơn đói. Trong thực đơn ít cholesterol của người cao huyết áp cũng nên có nhiều nấm.

Năm ăn thông dụng là nấm rơm, mộc nhĩ (mộc nhĩ), nấm bào ngư.

Nấm rơm dễ trồng, thu hoạch nhanh và năng suất cao. Phong trào trồng nấm rơm khá phổ thông ở các nơi có nhiều rơm dạ. Nấm rơm tươi có nhiều nước, trong 100g nấm tươi có 3,4 – 4,5g chất đạm, 1,8g chất béo, ngoài ra còn có các khoáng vật và chất xơ. Trong 100g nấm rơm khô có 49g chất đạm, 20g chất béo.

Cây nấm rơm

nấm mèo khô có 13,8/100g chất đạm, nhiều chất xơ và khoáng chất, gồm cả calcium và sắt.
Nấm bào ngư có lượng đạm gấp đôi rau quả, nhiều vitamin B1, B2 và đầy đủ các chất khoáng cấp thiết cho thân, nhất là calcium, photpho và sắt với tỷ lệ gấp đôi so với thịt.
Nấm là thực phẩm có hàm lượng calo thấp, do đó những người béo phì nên dùng. Bệnh nhân đái đường cũng nên ăn nấm vì nó ít chất đường lại làm giảm cơn đói. Trong thực đơn ít cholesterol của người cao áp huyết cũng nên có nhiều nấm. Trong nấm có ít ion natri nên dùng cho người viêm thận hoặc suy tim có chứng phù cũng rất hợp. Nấm có nhiều acid folic hơn thịt và rau nên giúp buồng bệnh thiếu máu.

Do có nhiều chất xơ, nấm có tính nhuận tràng. Thống kê cho thấy tỷ lệ ung thư đại tràng thấp ở vùng dân ăn nhiều nấm và cao ở vùng dân ăn nhiều thịt. Trường Đại học Tokyo ban bố rằng dịch chiết nấm ăn bằng cồn có tính trị ung thư ở chuột.
Dân gian thường dùng nấm mèo để trị các bệnh rối loạn đường ruột, đau cổ họng, thanh lọc máu. Đông y quan niệm rằng nấm mèo làm nhẹ mình, ích khí, cường chí.
Nấm không có diệp lục tố, không tự sinh sản được carbonhydrat như cây xanh, chúng sống nhờ vào cây mà chúng bám vào. Do đó nấm lành hay độc phần nào tùy thuộc vào môi trường cấy. Tốt nhất nên gieo cấy mộc nhĩ bằng mùn cưa trong bịch nylon nên chọn mạt cưa của loại gỗ cây không độc.

Việc thu hoặch nấm hoang dại cần phải có kinh nghiệm. Đã có rất nhiều trường hợp trúng độc nấm gây tử vong. Nấm độc thường có mầu sặc sỡ hoặc ánh bạc. Khí nấu chín mà nấm có mùi vị khác lạ thì không nên ăn.

Xem thêm các bai thuoc hay



Cây Sen có tên khoa học là Nelumbo nucifera. Trong số các cây thuốc, sen là cây thuốc độc đáo, cả cây dùng làm thuốc, mỗi bộ phận lại có tính trị liệu khác nhau.
Ngó Sen

Ngó Sen

Ngó Sen hay liên ngẫu là phần rễ ở dưới nước, mầu trắng, xốp, bên trong có nhiều ống dọc nhỏ, nhựa dính sít. Ngó sen vị nhạt, tính mát, không độc. Trong ngó sen có những chất bổ quí như asparagin, acginin.

Cây Sen có tên khoa học là Nelumbo nucifera. Trong số các cây thuốc, sen là cây thuốc độc đáo, cả cây dùng làm thuốc, mỗi bộ phận lại có tính trị liệu khác nhau.

Cay-Sen

Cây Sen

– Lá sen, cuống sen, vỏ hạt sen: dùng chữa đi tả, cầm máu.

– Hoa sen: dùng để an thần, cầm máu.

– Nhụy sen, tua sen: có tác dụng thanh tâm, thông thận, cầm máu, cố tinh.

– Hạt sen: bổ dương, bổ tâm tỳ, ích khí, an thần.

– Tâm sen: an thần, trị nhịp tim nhanh, khó ngủ, hay mơ.

– Củ sen: dưỡng tâm, bổ tỳ, cố tinh.

Tác dụng của ngó sen sống và ngó sen chín khác nhau. Ngó Sen sống có tác dụng thanh nhiệt, chỉ khát, an thần, làm nhẹ bao tử và giải độc rượu. Người ta dùng ngó sen để trị nhức đầu, mất ngủ, táo bón. Ngó Sen nấu chín làm mạnh tỳ vị, bổ máu nóng, giải độc do ăn phải cua độc. Ngó Sen chín còn có tác dụng nhuận tràng. Người ta thường nấu canh hay làm nộm ngó sen làm cho uống rượu không say, ngó sen dùng cho người bệnh đái đường rất tốt vì nó có tác dụng thanh nhiệt, chỉ khát.

Ngoài tác dụng trị liệu, Sen còn là cây cảnh rất đẹp và nên thơ.

Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng

Nhị vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng tanh hôi mùi bùn

Xem thêm các bai thuoc dan gian

Sunday, February 8, 2015



Trong dân gian, quả mướp đắng thường được dùng làm các món ăn hàng ngày như: mướp đắng nhồi thịt nấu canh, khổ qua xào trứng, mướp đắng sống ướp lạnh ăn với ruốc, mướp đắng muối chua… đều là những món được nhiều người chuộng và có tác dụng trị bệnh tiểu đường.

mướp đắng còn gọi là Khổ qua (không phải là Khổ quá), có tên khoa học là Monardico charantin. Quả khổ qua có vị đắng, tính hàn, không độc, có tác dụng thanh nhiệt, mát tim, sáng mắt, nhuận tỳ, bổ thận, nuôi can huyết, bớt mỏi mệt, trị chứng tiêu khát (tiểu đường), trị đái dắt, phù thũng do can nhiệt. Hạt khổ qua có tách dụng ích khí, tráng dương. Nước sắc lá khổ qua kích thích sự tiết mật, trị sốt cao, cũng dùng để trị bệnh tiểu đường. Dây mướp đắng nấu nước tắm trị rôm sẩy trẻ em.

Trong dân gian, quả khổ qua thường được dùng làm các món ăn hàng ngày như: khổ qua nhồi thịt nấu canh, khổ qua xào trứng, mướp đắng sống ướp lạnh ăn với ruốc, khổ qua muối chua… đều là những món được nhiều người ưa chuộng và có tác dụng trị bệnh tiểu đường.

Ăn uống là mạch sống của con người. Nếu ăn uống có chừng đỗi, đúng cách thì tỳ vị điều hòa, tạng phủ bình yên. Việc điều hòa ngũ vị (chua, đắng, ngọt, cay, mặn) rất quan trọng, ăn nhiều vị nào quá cũng không tốt. bởi thế trong Nội kinh có câu:

“Ăn là nuôi sự sống, cái ích đó do ta làm nên

Ăn là hại sự sống, cái hại đó cũng do ta làm nên”

Xem thêm các bài thuốc dân gian

Thursday, February 5, 2015



Rau Rút vị ngon ngọt, tính hàn, không độc, trơn hoạt. Nó có tính bổ trung ích khí, làm dễ ngủ, mát dạ dày, mạnh bổ gân xương, trị mất ngủ rất tốt.

Rau Rút có tên khoa học là Neptunia Oleracea. Đông y gọi là Quyết thái. Cây này mọc bò trên mặt nước. Thân cọng được bao bọc bởi một lớp phao trắng xốp như bông gòn. Lá hai lần kép, cuống phụ xếp theo hình chân vịt, khẽ động vào là lá cụp lại.

Rau rút thường được nấu chung với các rau khác trong một số món ăn hằng ngày như món canh cua khoai sọ, bánh đa cua, rau muống luộc,… đều là những món rất được chuộng của người Việt Nam.

Cây rau Rút

Khi có được rau Rút cọng non và dài, nhiều người thích ăn nó như rau sống. Lại có người ăn rau Rút sống chấm với mắm tép, mắm tôm, lẩu mắm.

Rau Rút có tên khoa học là Neptunia Oleracea. Đông y gọi là Quyết thái. Cây này mọc bò trên mặt nước. Thân cọng được bao bọc bởi một lớp phao trắng xốp như bông gòn. Lá hai lần kép, cuống phụ xếp theo hình chân vịt, khẽ động vào là lá cụp lại.

Rau Rút vị ngon ngọt, tính hàn, không độc, trơn hoạt. Nó có tính bổ trung ích khí, làm dễ ngủ, mát lòng dày, mạnh bổ gân xương. quần chúng thường dùng rau Rút trị mất ngủ rất tốt.

Con người thụ khí âm dương của trời ơi đất hỡi do vậy mọi biến hóa của trời đất đều ảnh hưởng đến con người. Nói đến âm dương là nói đến đêm ngày. Con người cũng biết sống theo qui luật tự nhiên, ngày thức đêm ngủ thì cuộc sống sẽ thoải mái, cơ thể nhẹ nhàng khoan khoái. Những người cưỡng lại với chu kỳ biến hóa của âm dương, ngày ngủ đêm thức thì thần khí không vững vàng, cơ thể mệt mỏi. Khoa học hiện đại cũng tán đồng về ý kiến này, người ta gọi đó là nhịp sinh vật học.

Ở tuổi thanh niên, khí huyết thịnh, cơ nhục suôn sẻ, kinh mạch thông hiểu thành ra ban ngày sảng khoái, ban đêm ngủ yên. Khi có tuổi, huyết khí suy, cơ nhục khô ráo, kinh mạch bê trệ, bởi thế ban đêm khó ngủ, ban ngày tê mê.

Đối với người mất ngủ, uống thuốc chỉ là trị ngọn, cần phải tìm biết duyên do để trị tận gốc, song song duy trì nếp sống điều độ, thư giãn ý thức, dùng những món ăn hạp, tập thể dục nhẹ nhàng… Cần kết hợp nhiều mặt mới mong hết bệnh tận gốc và sức khỏe mau phục hồi.

(Minh Khuê – sưu tầm)

Xem thêm các bai thuoc dan gian